Sự sáng tạo không thể phát triển ở những con người luôn chỉ bó hẹp trong những không gian kiến thức mà họ suốt ngày ngồi học thuộc và làm đi làm lại cho bộ não khỏi quên. Điều này cũng lý giải vì sao mà nước Mỹ luôn có những Facebook, Google, Apple... từ những người chưa cần học hết đại học hoặc bỏ ngang PhD giữa chừng.
Ảnh minh họa: Davide Bonazzi
Hồi nhỏ, ba tôi quan niệm không bao giờ cho đi học thêm. Cho nên, lúc vào lớp 6, khi tôi vào học ở một lớp chọn, mọi thứ đều rất khó khăn với tôi, nhất là môn toán. Trong khi các bạn trên lớp đều học thêm rất nhiều, giải toán nhanh như chớp, có những con tính tôi không hiểu sao họ có thể gộp đầu, gộp đuôi lại để tính nhanh hơn. Còn tôi, mọi thứ đều phải tự bơi lội, tự mua sách về đọc thêm, tự mò làm thêm. Điểm số của tôi khá bình thường so với những bạn cùng tuổi thời đó. Khi tôi hỏi sao không cho tôi đi học thêm để điểm cao, ba tôi bảo đó là cách nhanh nhất để tước đi trí sáng tạo của trẻ con và nó làm hại tôi hơn là cái lợi trước mắt.
Lần lượt sau nhiều năm khi tôi học lên Master và PhD, lúc này tôi mới hiểu vì sao ba tôi không nên cho tôi đi học thêm. Những bài thi của cuộc đời tôi sau này khó hơn gấp nhiều lần mà không thể có trong những lần đi học thêm, đồng nghĩa với tôi chẳng thể có sự chuẩn bị nào khác ngoài việc mang những gì đã học để "brainstorm". Khi chúng ta đã cố gắng hết sức, chúng ta ít nhất sẽ không hối tiếc dù kết quả kém hay tốt.
Một lần trong buổi tán gẫu với một giáo sư, chúng tôi trò chuyện về thầy cô giáo ngày xưa. Ông bảo có một cô giáo dạy lớp 3 của ông mà ông nhớ mãi đến tận giờ khi gần 60, bởi cô ấy là cô giáo tồi nhất của ông. Trong một lần gặp một bài toán hay và ông rất hứng khởi làm cả tối để sáng hôm sau mang đến hỏi cô giáo mình làm thế này đúng hay sai. Nhưng cô giáo của ông chỉ bảo, hãy đợi đến khi cô ấy dạy tới phần này.
Ông rất thất vọng với cách giải quyết vấn đề của cô. Điều quan trọng với một học sinh, theo ông, đó là cách chúng tư duy khi gặp một vấn đề, chứ không nằm ở việc chúng được dạy những công cụ mạnh để mang ra giải quyết. Con người khác với robot ở chỗ đó. Mọi robot đều được lập trình sẵn mọi khả năng, để khi gặp vấn đề, chúng mang ra đối phó. Nhưng nếu vấn đề không nằm trong những khả năng đã lập trình sẵn, robot sẽ ngưng làm việc ngay lập tức.

Về sau, ông giáo sư có làm một bài trắc nghiệm về tính diện tích của một hình không gian rất phức tạp, nhưng ông chia chúng thành những hình tam giác, hình thang, hình bình hành khác nhau và đều cho biết diện tích của những hình đó. Ông đưa bài toán cho 2 học sinh, lớp 1 và lớp 10. Kết quả rất bất ngờ, học sinh lớp 1 lại tính được, còn học sinh lớp 10 thì vứt bài ở đấy. Khi ông hỏi từng người, ở cô bé lớp 1, mặc dù kết quả bị sai nhưng cách làm của cô bé là cộng dần dần từng hình một vào nhau để ra kết quả hình không gian cuối cùng. Còn ở cậu bé lớp 10, cậu trả lời là không biết có công thức nào để tính cho tổng diện tích đó không, và ngồi 15 phút chỉ để lục lại trong trí nhớ về sự tồn tại của công thức đó.
Phép nhân sẽ không tồn tại khi chưa có phép cộng. Bạn có thể dùng phép cộng thay cho phép nhân nếu như bạn quên mất cái bảng cửu chương. Giống như tích phân, bạn không cần học thuộc công thức của chúng nếu bạn hiểu tích phân chỉ đơn giản là tổng diện tích của các hình thang nhỏ mà thôi. Điều quan trọng nhất, bạn có thực sự hiểu kiến thức cơ bản hay không.
Tôi sợ những ba mẹ luôn ép con phải làm những thứ mà bản thân họ không làm được.
Tôi sợ những ba mẹ luôn mong con thực hiện ước mơ mà họ không thể làm được trước đây.
Tôi sợ những ba mẹ luôn thích nghĩ hộ, làm hộ cho con cái.
Con người sinh ra, hạnh phúc nhất là được làm điều mình muốn. Vậy, khi bắt con làm theo ý mình, ba mẹ có phải là người luôn mong con được hạnh phúc nhất?

Gần đây ngẫu nhiên tôi gặp trên mạng rất nhiều bài tập về... giai thừa cho các em học sinh lớp 3, lớp 4 ở Việt Nam làm tôi giật mình. Tôi biết chắc chắn các em sẽ làm được, bởi việc ép buộc ngồi học từ sáng tới tối mịt đã giúp rất nhiều học sinh Việt Nam vào được các trường chuyên, lớp chọn nhờ việc tối ngày làm đi làm lại các bài toán khó. Điều này đúng với cả người Trung Quốc.
Nhưng, dù người Trung Quốc có điểm cao GRE và TOEFL nhất trong các dân tộc sang Mỹ học Graduate, thì khi qua giai đoạn học trên lớp - nơi điểm số 100% luôn thuộc về người Trung Quốc, bước tới giai đoạn làm nghiên cứu thì chỉ sinh viên Mỹ mới là những người nghĩ ra nhiều thứ mới. Tiêu chuẩn một PhD nằm ở những sản phẩm cuối cùng.
Sự sáng tạo không thể phát triển ở những con người luôn chỉ bó hẹp trong những không gian kiến thức mà họ suốt ngày ngồi học thuộc và làm đi làm lại cho bộ não khỏi quên. Điều này cũng lý giải vì sao mà nước Mỹ luôn có những Facebook, Google, Apple... từ những người chưa cần học hết đại học hoặc bỏ ngang PhD giữa chừng.
Sức sáng tạo luôn tồn tại trong con người từ khi sinh ra. Nó tồn tại hay mất dần do những người xung quanh ảnh hưởng. Khi một em bé mới nhận thức cuộc sống, bé đặt ra nhiều câu hỏi và cũng trả lời nhiều câu đôi khi làm người lớn giật mình. Tôi thích cách các cô giáo dạy trẻ con mẫu giáo ở Mỹ hay làm mỗi khi các em bé chỉ vào một thứ và hỏi đó là cái gì, câu đầu tiên họ hay nói là: "Vậy bé nghĩ nó giống cái gì bé từng gặp hay từng nằm mơ ?". Câu hỏi rất đơn giản nhưng chúng giúp trẻ em tư duy rất tốt.
Có lần tôi chứng kiến, một em bé chỉ vào một cái vòng và cô giáo của em đã không nói nó là hình tròn, mà hỏi bé lại bé nghĩ nó là cái gì. Em bé rất hào hứng trả lời lại: "Nó giống cái hồ trước nhà của bé, giống mặt trăng trên trời, giống biển Stop trên đường" và điều bất ngờ, em bé lấy một cái dây và quấn 2 đầu lại với nhau, lấy các ngón tay bé xíu dang sợi dây dần dần thành hình tròn. Một em bé hơn 4 tuổi làm được nhiều điều hơn là chỉ nhập tâm vào đầu một cái định nghĩa khô cứng về hình tròn mà em chưa thể hiểu ở tuổi đó.

Cuộc sống không chỉ gói trong các trang giấy, cũng như cuộc đời bạn chẳng thể chỉ loanh quanh trong lớp học. Tốt nghiệp đại học hay PhD chỉ là sự khởi đầu của một chặng đường khác, mà trong đó bạn phải chuẩn bị đương đầu với nhiều khó khăn bỗng dưng xuất hiện giống như những viên mưa đá đột ngột rơi xuống đường vào những ngày giông bão. Bạn cần sự sáng tạo không chỉ trong học tập, mà sự sáng tạo giúp bạn đối đầu với mọi khó khăn.
Sức sáng tạo luôn giúp bạn chịu tự mở ra một quyển sách để đọc, tự bước chân đi tìm người khác để học hỏi, và tự tin vào những điều mình đang lựa chọn. Để những lúc bạn ra trường thất nghiệp với ngành bạn học, những lúc bạn đi làm mà không thấy lối thoát, những lúc bạn đang chán chường với xã hội xung quanh, bạn sẽ không phải ngồi than vãn mà luôn biết mình phải làm gì để bản thân thoát ra được vũng lầy mình đang đứng.
Đặt câu hỏi cho chính mình là sự khởi đầu cho việc đi tìm câu trả lời. Nơi nào có câu hỏi, nơi đó câu trả lời đang ở rất gần bạn.
Related Posts

Ít ai biết rằng nền du lịch của “xứ sở vạn đảo” Indonesia phụ thuộc vào một hòn đảo duy nhất là Bali. Nội dung nổi bật: Bối cảnh: Sớm được phát hiện và đưa vào khai thác bởi người Hà Lan vào những năm 1920. Bali bị "chìm vào quên lãng" khi chiến tranh thế giới và cuộc chiến giành độc lập Indonesia nổ ra. Kế hoạch: Hiểu được sự phức tạp của văn hóa và tín ngưỡng địa phương. Chính quyền Indonesia quyết định biến Bali thành một mũi tàu để kéo nền kinh tế của cả nước. "Đến thăm Bali" là mẫu quảng cáo được đầu tư không kém gì "Đến thăm Indonesia". Kết quả: Thông qua nhiều thập kỷ đầu tư bài bản, Bali dần trở thành một điểm đến quen thuộc của du khách trên khắp thế giới, thậm chí còn nổi tiếng hơn cả Indonesia. Đến năm 2017, Bali đón nhận gần 6 triệu lượt khách quốc tế, gần bằng 1/2 cả nước Việt Nam cộng lại. Thiên đường "chuẩn Châu Âu" Nhiều thập kỷ trước khi giành được độc lập, Indonesia và đặc biệt là Bali đã được khám phá bởi Henrik Van Kol. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 2. Là đại diện của chính quyền Hà Lan thời bấy giờ. Henrik với nhiềm đam mê khám phá của mình đã chu du nhiều nơi tại Indonesia như Sumatra, Java, hay Bali từ những năm 1902. Có thể hiểu được Java và Sumatra vì đây là hai đảo lớn với hoạt động giao thương tấp nập cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của Hà Lan. Nhưng chuyến "ghé thăm" Bali của ông là hoàn toàn đến từ sự tò mò cá nhân, Henrik quyết định đi khám phá bất chấp những hiểm nguy rình rập vì những lời đồn về một hòn đảo theo đạo Hindu tuyệt đẹp. Và chuyến đi Bali của ông đã trở thành "huyền thoại". Trở về Hà Lan, Henrik lập tức phát hành một quyển sách mang tên Out of Our Colonies (Bên ngoài thuộc địa), mô tả về một đất nước đầy huyền bí với hàng vạn đảo ở Đông Nam Á. Trong tổng cộng 826 trang sách, Bali vinh dự được nhắc đến và trở thành một phần chính với 123 trang. Quyển sách đó trở thành "top seller" tại Hà Lan và nhanh chóng biến Bali thành một điểm đến hấp dẫn. Rất nhiều thành viên trong chính quyền Hà Lan đang sống tại Java và Sumatra lập tức trở nên tò mò và bắt đầu đến tham quan khu vực lạ lẫm này. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 3. Vài năm sau đó, Cục du lịch Hà Lan bắt đầu mở ra những tour du lịch khắp Indonesia, bắt đầu từ hai đảo chính là Sumatra và Java, và kết thúc ở "thiên đường nhiệt đới" Bali. Nếu như Sumatra và Java sở hữu một diện tích lớn và địa hình phức tạp, rất khó để khám phá trong thời gian ngắn, thì Bali với "lợi thế" nhỏ của mình cung cấp một khu vực "dày đặc" các điểm tham quan. Từ năm 1924, chính quyền Hà Lan quyết định cung cấp dịch vụ tàu định kỳ mỗi tuần từ Batavia (ngày nay là Jakarta) đến Bali. Chiếc tàu trên thường neo đậu và đón khách từ sáng thứ 6 và cung cấp một "gói nghỉ dưỡng" hai ngày một đêm, trở về vào tối Chủ Nhật. Bali trở thành một địa điểm quen thuộc để "trốn" cuối tuần đối với các thành phần giàu có tại Indonesia thời bấy giờ. Với số lượng khách ngày một tăng, Bali quyết tâm giữ vững các thế mạnh văn hóa và tôn giáo của mình để tạo nên một hình ảnh hoàn toàn khác biệt so với Sumatra hay Java. Đặc biệt là tôn giáo Hindu độc nhất ở Bali, nổi bật so với bất kỳ nơi nào trên thế giới. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 4. Trong những năm từ 1902 đến 1925, Indonesia ngày càng trở thành một điểm đến nổi tiếng được hàng loạt quyển sách nhắc đến, và không có quyển nào là không nhắc tới Bali. Trong đó nổi tiếng nhất là quyển "Bali" của Dr. Gregor Krause từ Đức, quyển sách miêu tả lại chuyến đến thăm "hòn đảo của Chúa" của ông. Đến năm 1925, không chỉ Hà Lan mà đến lượt Anh cũng bắt đầu cung cấp các tour du lịch đến Bali, biến đây thành một trong những đại diện cho khu vực nhiệt đới Đông Nam Á. Không lâu sau đó, nguồn tiền đầu tư từ Châu Âu cũng bắt đầu đổ về Bali. Các khu nghỉ dưỡng và khách sạn bắt đầu mọc lên nhanh chóng từ dòng tiền Châu Âu cũng như các "đại gia" trong nước. Nhưng tiếc rằng Bali đang trên đà phát triển lại đột ngột bị bỏ hoang khi Thế chiến thứ hai nổ ra. Sự vào cuộc của chính quyền Indonesia [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 5. Chật vật giành lại độc lập vào năm 1949, Bali lúc này đã đánh mất lượng khách du lịch đã có và trở thành một hòn đảo "hoang". Tuy vẫn được ghé thăm bởi một số nhân vật quan trọng nhưng ngành du lịch tại Bali gần như bị "khai tử". Mãi đến cuối những năm 1960, chính quyền Indonesia mới kiểm soát được tình hình và quyết định "hồi sinh" ngành du lịch tại Bali. Kể từ đó "Bali" luôn là đại diện cho những chương trình quảng bá du lịch của cả Indonesia, "Visit Indonesia" hay "Visit Bali" đều được sử dụng song song với nhau. Điều đó dẫn tới gần một nửa du khách ghé thăm Indonesia nhưng thực ra là đến Bali (một con số khá bất ngờ nếu bạn biết rằng quốc gia này có tận 17.600 đảo lớn nhỏ). Du khách đổ về Bali không chỉ là do mong muốn, họ còn được đích thân chính quyền Indonesia "mời gọi" đến với thiên đường này. Xét về khía cạnh chính trị, việc dồn hầu hết du khách vào một chỗ cũng sẽ giúp chính quyền Indonesia đỡ "nhức đầu" hơn. Nhưng tại sao Bali lại thành công đến thế? [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 6. Sự thành công của Bali đến từ một quá trình đầu tư phát triển rất dài của chính quyền Indonesia. Hơn 10 năm kể từ khi quyết định "mở cửa" Bali, vào những năm 1970, "kho báu" khi xưa mới dần dần tìm lại được sức hấp dẫn trong mắt các du khách quốc tế. Đến những năm 1980, Bali đón nhận một nguồn vốn khổng lồ đổ vào hạ tầng giao thông và du lịch, đứng đằng sau đó không ai khác vẫn là chính phủ Indonesia và những nhà đầu tư quốc tế lớn được chính phủ khuyến khích kinh doanh tại đây. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 7. Đến những năm 1990, Indonesia quyết định đầu tư mạnh vào quảng cáo để tiếp tục phát triển Bali. Năm 1992 được nước này gọi là năm "Đến thăm Indonesia", nhưng trọng tâm vẫn là Bali. Suốt một năm đó, truyền thông quốc tế được chính quyền Indonesia trả một khoản tiền không nhỏ để liên tục chiếu những mẫu quảng cáo về Bali, thậm chí là cái tên "Indonesia" còn không xuất hiện trong những mẫu quảng cáo, khiến không ít du khách hoàn toàn không biết Bali trực thuộc quốc gia này. Đến cuối những năm 1990, gần 30 năm kể từ lúc "mở cửa" cho Bali, chính quyền Indonesia tự tin rằng mình đã khai thác tối đa kho tàng kia và quyết định thêm một địa điểm mới là Lombok vào danh sách. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 8. Tuy cũng nhận được không ít đầu tư, nhưng cho đến nay Lombok vẫn kém xa Bali về tính hiệu quả. Đa phần là do "cái bóng" của Bali đã quá lớn, và một phần là do văn hóa đạo Hồi khá khắt khe với các hoạt động "ăn chơi" tại đây. Kết quả Tính đến năm 2017, gần 6 triệu lượt khách đã đến với "thiên đường" nhiệt đới Bali (trong tổng số 14 triệu lượt khách quốc tế đến thăm Indonesia). [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 9. Bali thành công đến nỗi chính quyền Indonesia phải chật vật tìm một "đệ tử" cho địa danh quá nổi tiếng này, và tiếc rằng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Và đối với nhiều du khách, họ chỉ biết đến Bali chứ không hề nghe tới đất nước Indonesia xa lạ kia. Khiến Bali trở thành một Case Study khi quảng cáo "quá thành công". 




EmoticonEmoticon