Thời gian đầu, chỉ có khoảng 200 loài thực vật, rau củ quả, cũng như là trái cây, hoa màu dược liệu, lúa nước được trồng trong công ty. Đến nay, số lượng cây trồng đã lên đến hơn 280 loại. Các khâu từ ươm mầm, trồng trọt đều do chính tay các nhân sự ở đây thực hiện.
Sống và làm việc giữa thành phố quanh năm ồn ào náo nhiệt, khói bụi ô nhiễm nên đôi khi người ta “thèm” được trở về những miền quê để tận hưởng bầu không khí trong lành với các loại cây xanh hoa màu, sông suối trong sạch và ăn những món ăn thuần túy của nghề nông, trồng sao ăn vậy, chẳng tẩm tiêm hóa chất. Quả thật, đây là giấc mơ của không ít người, nhất là dân văn phòng giam mình 8 tiếng mỗi ngày nơi cơ quan khô khan, nhiều áp lực.
Và có lẽ hiểu rõ tâm lý này của nhân viên, Tập đoàn Pasona - một trong những tập đoàn nhân sự lớn nhất Nhật Bản đã biến tòa nhà công ty cao 9 tầng và rộng gần 4.000 mét vuông của mình trở thành nơi kết hợp giữa văn phòng và nông trại trồng trọt.
Ban đầu, Pasona Group đã triển khai nhiều sáng kiến nông nghiệp như "Dự án thực tập nông nghiệp" từ năm 2003 để khuyến khích nhân sự của mình tham gia vào việc trồng trọt. Và dự án phủ xanh tòa nhà này hay còn được gọi với cái tên “Farm To Table” cũng là một phần của dự án. Đây có thể xem là mô hình trồng trọt kết hợp với văn phòng lớn nhất Nhật Bản.
Thời gian đầu, chỉ có khoảng 200 loài thực vật, rau củ quả cũng như là trái cây, hoa màu dược liệu, lúa nước được trồng ở các khu vực chỉ định ở cả 9 tầng của tòa nhà. Nhưng đến nay, số lượng cây trồng đã lên đến hơn 280 loại. Các khâu từ ươm mầm, trồng trọt đều do chính tay các nhân sự ở Pasona thực hiện dưới sự hướng dẫn tỉ mỉ của các chuyên gia về trồng trọt nông sản tại Nhật Bản.

Đối với các cây trồng trong nhà, Pasona đã đầu tư lắp đặt một hệ thống tưới tiêu tự động, cùng với bộ điều khiển khí hậu thông minh, giám sát độ ẩm, nhiệt độ, gió để cân bằng giữa nhu cầu của nhân viên và cây trồng trong giờ hành chính. Sau khoảng thời gian đó, các hệ thống này chỉ được tùy chỉnh cho cây trồng để có năng suất tốt hơn mà không sợ ảnh hưởng đến mọi người. Riêng về ánh sáng, Pasona sử dụng các bóng đèn huỳnh quang cải tiến để tăng cao tuổi thọ và tiết kiệm điện hơn so với các loại đèn huỳnh quang thông thường lên đến 25%.


Còn đối với cây trồng ngoài trời, ở khắp các ban công, cửa sổ trên cả 9 tầng của tòa nhà tập đoàn đều được phủ xanh bởi các loại hoa quả theo mùa đặc trưng của khí hậu Nhật Bản. Ngoài ra, chúng còn có công dụng tạo nên một vẻ đẹp rất riêng của tòa nhà khiến người đi đường cảm giác thích thú.
Những loại cây này hay các loại nông sản theo mùa vụ như lúa nước, đến mùa thu hoạch nhân sự còn được phép đưa con em mình đến để cùng trải nghiệm cảm giác làm nông dân giữa lòng thành thị - một điều mà bao đứa trẻ lớn lên ở thành phố, nhất là thành phố lớn như Tokyo chưa bao giờ làm được.


Tất nhiên, các sản phẩm thu được sau quá trình thu hoạch đều được dùng cho các nhân viên ở Pasona: rau củ quả thì được đưa về nhà bếp để chế biến thành các món ăn, dược liệu được phòng y tế tiếp nhận và bảo quản phục vụ nhu cầu ốm đau của nhân sự, trái cây dùng để đãi đối tác hoặc làm món tráng miệng... Và dù cho chắc chắn những sản phẩm này không bao giờ là đủ cho toàn bộ nhân sự ở đây, cái chính là Pasona đã tạo nên cho riêng mình một giá trị to lớn mà hiếm có tập đoàn nào làm được.

Thử nghĩ mà xem, mỗi ngày đi làm đều được tự mình kiểm tra hạt mầm dưới ghế ngồi, rồi cùng nhau đi thu hoạch rau củ, đến cả việc ngồi bàn bạc công việc cũng có một mảng cây xanh xum xuê trĩu quả kế bên, đi họp lại có cà chua chín mọng hay bí ngô căng bóng treo lủng lẳng trên đầu, đến giờ ăn lại được cảm nhận thành quả của mình làm nên qua các đĩa salad... thì có phải Pasona đã làm nên một môi trường làm việc đầy sáng tạo, giải tỏa stress căng thẳng và khơi nguồn cảm hứng cho nhân viên hay không?

Và ngoài những ý nghĩa thiết thực kể trên, dự án “Farm To Table” của tập đoàn Pasona còn mang đến một giá trị vĩ mô hơn cho xã hội, đó là giúp nâng tầm nhận thức của con người, nhất là người thành thị về tác dụng cây xanh trong đời sống, bao gồm cả sức khỏe lẫn tinh thần.







(Nguồn: Pasonagroup, Makaan, Shashoku)
Related Posts


Ít ai biết rằng nền du lịch của “xứ sở vạn đảo” Indonesia phụ thuộc vào một hòn đảo duy nhất là Bali. Nội dung nổi bật: Bối cảnh: Sớm được phát hiện và đưa vào khai thác bởi người Hà Lan vào những năm 1920. Bali bị "chìm vào quên lãng" khi chiến tranh thế giới và cuộc chiến giành độc lập Indonesia nổ ra. Kế hoạch: Hiểu được sự phức tạp của văn hóa và tín ngưỡng địa phương. Chính quyền Indonesia quyết định biến Bali thành một mũi tàu để kéo nền kinh tế của cả nước. "Đến thăm Bali" là mẫu quảng cáo được đầu tư không kém gì "Đến thăm Indonesia". Kết quả: Thông qua nhiều thập kỷ đầu tư bài bản, Bali dần trở thành một điểm đến quen thuộc của du khách trên khắp thế giới, thậm chí còn nổi tiếng hơn cả Indonesia. Đến năm 2017, Bali đón nhận gần 6 triệu lượt khách quốc tế, gần bằng 1/2 cả nước Việt Nam cộng lại. Thiên đường "chuẩn Châu Âu" Nhiều thập kỷ trước khi giành được độc lập, Indonesia và đặc biệt là Bali đã được khám phá bởi Henrik Van Kol. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 2. Là đại diện của chính quyền Hà Lan thời bấy giờ. Henrik với nhiềm đam mê khám phá của mình đã chu du nhiều nơi tại Indonesia như Sumatra, Java, hay Bali từ những năm 1902. Có thể hiểu được Java và Sumatra vì đây là hai đảo lớn với hoạt động giao thương tấp nập cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của Hà Lan. Nhưng chuyến "ghé thăm" Bali của ông là hoàn toàn đến từ sự tò mò cá nhân, Henrik quyết định đi khám phá bất chấp những hiểm nguy rình rập vì những lời đồn về một hòn đảo theo đạo Hindu tuyệt đẹp. Và chuyến đi Bali của ông đã trở thành "huyền thoại". Trở về Hà Lan, Henrik lập tức phát hành một quyển sách mang tên Out of Our Colonies (Bên ngoài thuộc địa), mô tả về một đất nước đầy huyền bí với hàng vạn đảo ở Đông Nam Á. Trong tổng cộng 826 trang sách, Bali vinh dự được nhắc đến và trở thành một phần chính với 123 trang. Quyển sách đó trở thành "top seller" tại Hà Lan và nhanh chóng biến Bali thành một điểm đến hấp dẫn. Rất nhiều thành viên trong chính quyền Hà Lan đang sống tại Java và Sumatra lập tức trở nên tò mò và bắt đầu đến tham quan khu vực lạ lẫm này. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 3. Vài năm sau đó, Cục du lịch Hà Lan bắt đầu mở ra những tour du lịch khắp Indonesia, bắt đầu từ hai đảo chính là Sumatra và Java, và kết thúc ở "thiên đường nhiệt đới" Bali. Nếu như Sumatra và Java sở hữu một diện tích lớn và địa hình phức tạp, rất khó để khám phá trong thời gian ngắn, thì Bali với "lợi thế" nhỏ của mình cung cấp một khu vực "dày đặc" các điểm tham quan. Từ năm 1924, chính quyền Hà Lan quyết định cung cấp dịch vụ tàu định kỳ mỗi tuần từ Batavia (ngày nay là Jakarta) đến Bali. Chiếc tàu trên thường neo đậu và đón khách từ sáng thứ 6 và cung cấp một "gói nghỉ dưỡng" hai ngày một đêm, trở về vào tối Chủ Nhật. Bali trở thành một địa điểm quen thuộc để "trốn" cuối tuần đối với các thành phần giàu có tại Indonesia thời bấy giờ. Với số lượng khách ngày một tăng, Bali quyết tâm giữ vững các thế mạnh văn hóa và tôn giáo của mình để tạo nên một hình ảnh hoàn toàn khác biệt so với Sumatra hay Java. Đặc biệt là tôn giáo Hindu độc nhất ở Bali, nổi bật so với bất kỳ nơi nào trên thế giới. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 4. Trong những năm từ 1902 đến 1925, Indonesia ngày càng trở thành một điểm đến nổi tiếng được hàng loạt quyển sách nhắc đến, và không có quyển nào là không nhắc tới Bali. Trong đó nổi tiếng nhất là quyển "Bali" của Dr. Gregor Krause từ Đức, quyển sách miêu tả lại chuyến đến thăm "hòn đảo của Chúa" của ông. Đến năm 1925, không chỉ Hà Lan mà đến lượt Anh cũng bắt đầu cung cấp các tour du lịch đến Bali, biến đây thành một trong những đại diện cho khu vực nhiệt đới Đông Nam Á. Không lâu sau đó, nguồn tiền đầu tư từ Châu Âu cũng bắt đầu đổ về Bali. Các khu nghỉ dưỡng và khách sạn bắt đầu mọc lên nhanh chóng từ dòng tiền Châu Âu cũng như các "đại gia" trong nước. Nhưng tiếc rằng Bali đang trên đà phát triển lại đột ngột bị bỏ hoang khi Thế chiến thứ hai nổ ra. Sự vào cuộc của chính quyền Indonesia [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 5. Chật vật giành lại độc lập vào năm 1949, Bali lúc này đã đánh mất lượng khách du lịch đã có và trở thành một hòn đảo "hoang". Tuy vẫn được ghé thăm bởi một số nhân vật quan trọng nhưng ngành du lịch tại Bali gần như bị "khai tử". Mãi đến cuối những năm 1960, chính quyền Indonesia mới kiểm soát được tình hình và quyết định "hồi sinh" ngành du lịch tại Bali. Kể từ đó "Bali" luôn là đại diện cho những chương trình quảng bá du lịch của cả Indonesia, "Visit Indonesia" hay "Visit Bali" đều được sử dụng song song với nhau. Điều đó dẫn tới gần một nửa du khách ghé thăm Indonesia nhưng thực ra là đến Bali (một con số khá bất ngờ nếu bạn biết rằng quốc gia này có tận 17.600 đảo lớn nhỏ). Du khách đổ về Bali không chỉ là do mong muốn, họ còn được đích thân chính quyền Indonesia "mời gọi" đến với thiên đường này. Xét về khía cạnh chính trị, việc dồn hầu hết du khách vào một chỗ cũng sẽ giúp chính quyền Indonesia đỡ "nhức đầu" hơn. Nhưng tại sao Bali lại thành công đến thế? [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 6. Sự thành công của Bali đến từ một quá trình đầu tư phát triển rất dài của chính quyền Indonesia. Hơn 10 năm kể từ khi quyết định "mở cửa" Bali, vào những năm 1970, "kho báu" khi xưa mới dần dần tìm lại được sức hấp dẫn trong mắt các du khách quốc tế. Đến những năm 1980, Bali đón nhận một nguồn vốn khổng lồ đổ vào hạ tầng giao thông và du lịch, đứng đằng sau đó không ai khác vẫn là chính phủ Indonesia và những nhà đầu tư quốc tế lớn được chính phủ khuyến khích kinh doanh tại đây. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 7. Đến những năm 1990, Indonesia quyết định đầu tư mạnh vào quảng cáo để tiếp tục phát triển Bali. Năm 1992 được nước này gọi là năm "Đến thăm Indonesia", nhưng trọng tâm vẫn là Bali. Suốt một năm đó, truyền thông quốc tế được chính quyền Indonesia trả một khoản tiền không nhỏ để liên tục chiếu những mẫu quảng cáo về Bali, thậm chí là cái tên "Indonesia" còn không xuất hiện trong những mẫu quảng cáo, khiến không ít du khách hoàn toàn không biết Bali trực thuộc quốc gia này. Đến cuối những năm 1990, gần 30 năm kể từ lúc "mở cửa" cho Bali, chính quyền Indonesia tự tin rằng mình đã khai thác tối đa kho tàng kia và quyết định thêm một địa điểm mới là Lombok vào danh sách. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 8. Tuy cũng nhận được không ít đầu tư, nhưng cho đến nay Lombok vẫn kém xa Bali về tính hiệu quả. Đa phần là do "cái bóng" của Bali đã quá lớn, và một phần là do văn hóa đạo Hồi khá khắt khe với các hoạt động "ăn chơi" tại đây. Kết quả Tính đến năm 2017, gần 6 triệu lượt khách đã đến với "thiên đường" nhiệt đới Bali (trong tổng số 14 triệu lượt khách quốc tế đến thăm Indonesia). [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 9. Bali thành công đến nỗi chính quyền Indonesia phải chật vật tìm một "đệ tử" cho địa danh quá nổi tiếng này, và tiếc rằng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Và đối với nhiều du khách, họ chỉ biết đến Bali chứ không hề nghe tới đất nước Indonesia xa lạ kia. Khiến Bali trở thành một Case Study khi quảng cáo "quá thành công". 



EmoticonEmoticon