Nhìn chung chi phí xăng Jet – A1 khó kiểm soát và dự báo, hiện giá nhiên liệu đang có xu hướng tăng trở lại từ 2016 theo biến động của giá dầu.

Giá dầu vượt đỉnh, giá Jet A1 cũng tăng vọt hơn 41% kể từ đầu năm 2018
Sau thỏa thuận cắt giảm nguồn cung thành công vào cuối năm 2016, giá dầu thế giới bắt đầu hồi phục và tăng trở lại. Điều này trở thành nỗi lo lắng cho các đơn vị kinh doanh vận tải, đặc biệt ngành hàng không khi nguyên liệu đầu vào chiếm tỷ trọng rất lớn đến cơ cấu chi phí doanh nghiệp.
Bước sang năm 2018, giá dầu thế giới vài tuần gần đây liên tục tăng mạnh sau những tuyên bố của Tổng thống Mỹ Donald Trump về khả năng rút khỏi thỏa thuận hạt nhân với Iran. Nỗi lo ngại về một lệnh cấm vận theo đó ảnh hưởng tới nguồn cung, đã đẩy giá dầu vượt mức 71 USD/thùng, cao nhất kể từ cuối năm 2014. Và hôm thứ Tư (9/5), giá dầu chính thức vọt lên mức cao nhất trong 3 năm rưỡi, sau khi ông Trump rút Mỹ ra khỏi thỏa thuận hạt nhân với Iran năm 2015 và tuyên bố áp đặt mức trừng phạt kinh tế cao nhất lên thành viên của OPEC. Giá dầu Brent cũng tăng mạnh lên đỉnh kể từ năm 2015, vượt mốc 77 USD/thùng.
Riêng với ngành hàng không, giá Jet A1 - loại xăng được dùng cho tất cả các chuyến bay cũng tăng hơn 41% từ đầu năm 2018, đạt 85 USD/thùng trong tháng 4. Với tình hình giá dầu hiện tại, con số này dự kiến tiếp tục tăng trong tháng 5 cũng như những tháng kế tiếp.
Hiện, các hãng hàng không Việt Nam đều sử dụng xăng Jet – A1 cho các chuyến bay của mình. Như vậy, việc giá nhiên liệu tăng mạnh thời gian qua phần nào ảnh hưởng nhiều đến tình hình hoạt động của những đơn vị kinh doanh vận tải trên không này?
Trong một báo cáo nhận định ngành hàng không mới công bố của Chứng khoán Bảo Việt (BVSC), đơn vị này cũng nhìn nhận rủi ro của doanh nghiệp trước tình hình biến động giá dầu. Theo BVSC, nhìn chung chi phí xăng Jet – A1 khó kiểm soát và dự báo, hiện giá nhiên liệu đang có xu hướng tăng trở lại từ 2016 theo biến động của giá dầu.
Diễn biến giá nhiên liệu máy bay cùng với giá dầu thô Brent (USD/thùng)

Nguồn: IATA.
Kế hoạch lợi nhuận tăng thấp hơn doanh thu!
Trên thực tế, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines, HVN) đã đặt giá nhiên liệu là thách thức hàng đầu trong hoạt động năm 2018. Theo Vietnam Airlines ước tính, giá nhiên liệu dự kiến tăng mạnh và duy trì ở mức cao, từ 75-80 USD/thùng, tương đương tăng 15-20% so với năm 2017.
Theo đó, năm 2018, Công ty đặt mục tiêu doanh thu 97.073 tỷ đồng, tăng 14% so với năm trước nhưng lợi nhuận dự kiến giảm 18% xuống còn 1.917 tỷ đồng. Kết thúc quý 1/2018, doanh thu hợp nhất đạt 24.411 tỷ, tăng 17%, song do giá vốn hàng bán tăng mạnh hơn khiến lợi nhuận gộp của Vietnam Airlines chỉ tăng 11,6% so với cùng kỳ, đạt 3.624 tỷ đồng. Có thể thấy, với tỷ trọng chi phí nhiên liệu/tỷ trọng chi phí hoạt động ở mức cao từ 25-30%, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận không đuổi kịp doanh thu phần nào phản ánh tác động của giá dầu tới hoạt động của Vietnam Airlines.
Thậm chí, các hãng hàng không giá rẻ như Vietjet Air (VJC) sẽ còn chịu tác động từ sự tăng giá nhiên liệu lớn hơn do tỷ trọng chi phí nhiên liệu trên tỷ trọng chi phí hoạt động lớn, chiếm 41-46%. Chính điều này cũng được cổ đông đặt câu hỏi tại ĐHĐCĐ thường niên 2018 mới đây về tình hình dự phòng giá nhiên liệu? Trả lời, đại diện Công ty cho biết vẫn đang có kế hoạch dự phòng 30% cho 3 tháng tiếp theo. Và tương lai nếu giá dầu tăng, Vietjet sẽ sẽ điều chỉnh kế hoạch dự phòng giá dầu phù hợp. Hiện, các con số kế hoạch kinh doanh của Vietjet được đưa ra dựa trên giá dầu thô 70USD/thùng.
Giá nhiên liệu tăng mạnh có lẽ cũng ảnh hưởng đến Bamboo Airways, một hãng hàng không đang chờ cấp phép của "đại gia" Trịnh Văn Quyết. Như vậy, bên cạnh những bài toán khó hiện hữu liên quan đến việc xin giấy phép, thuê máy bay để chuẩn bị kịp thời điểm cất cánh, Bamboo Airways đến nay còn phải đối mặt với tình hình chi phí nhiên liệu tăng cao.
Các hãng đã có biện pháp gì để không rơi vào bể lỗ như năm 2008?
Mặc dù hiện tình hình hoạt động của các hãng hàng không vẫn ổn định, song còn đó nỗi ám ảnh về giá dầu lên đỉnh (150 USD/thùng) vào năm 2008 khiến giá xăng tăng 8% , hầu hết doanh nghiệp trong ngành theo đó đều thua lỗ.
Thống kê diễn biến giá nhiên liệu so với biên lợi nhuận chung toàn ngành hàng không trên thế giới của BVSC dưới đây cũng phần nào thể hiện được mối quan hệ mật thiết giữa giá nhiên liệu và lợi nhuận của các hãng hàng không.

Nguồn: BVSC.
Quay trở lại với năm nay, trước diễn biến giá dầu phức tạp, các hãng hàng không đều đang triển khai nhiều biện pháp kiểm soát giá. Trong đó, Vietnam Airlines cho biết sẽ triển khai giai đoạn 2 chương trình tiết kiệm nhiên liệu và tối ưu hóa đường bay, phương thức bay.
Tương tự, Vietjet Air bên cạnh việc dự phòng nguyên liệu xăng dầu, Công ty hiện cũng có nhiều biện pháp khác như đầu tư phương tiện tiết kiệm nhiên liệu, khai thác các chương trình quản lý tiết kiệm nhiên liệu khác... nhằm tối thiểu hóa chi phí. Đặc biệt hơn cả, hãng hàng không này còn sử dụng hợp đồng hedging từ giữa tháng 3 khi giá dầu thô đạt 65 USD/thùng.
Về lý thuyết, hợp đồng hedging giống như một loại bảo hiểm, giúp các hãng hàng không bị tổn thương ít hơn khi giá nhiên liệu tăng trong tương lai. Mặc dù vậy, hedging cũng có thể trở thành con dao hai lưỡi khi doanh nghiệp không dự báo đúng nhu cầu nhiên liệu. Bài học thất bại điển hình là Hãng hàng không Jetstar Pacific vào năm 2009, khi dự trữ xăng vào thời điểm giá thế giới tăng cao khiên Công ty thua lỗ 31 triệu USD (khoảng 600 tỷ đồng).

Biến động giá cổ phiếu của 2 hãng hàng không trong 1 năm qua
Related Posts



Ít ai biết rằng nền du lịch của “xứ sở vạn đảo” Indonesia phụ thuộc vào một hòn đảo duy nhất là Bali. Nội dung nổi bật: Bối cảnh: Sớm được phát hiện và đưa vào khai thác bởi người Hà Lan vào những năm 1920. Bali bị "chìm vào quên lãng" khi chiến tranh thế giới và cuộc chiến giành độc lập Indonesia nổ ra. Kế hoạch: Hiểu được sự phức tạp của văn hóa và tín ngưỡng địa phương. Chính quyền Indonesia quyết định biến Bali thành một mũi tàu để kéo nền kinh tế của cả nước. "Đến thăm Bali" là mẫu quảng cáo được đầu tư không kém gì "Đến thăm Indonesia". Kết quả: Thông qua nhiều thập kỷ đầu tư bài bản, Bali dần trở thành một điểm đến quen thuộc của du khách trên khắp thế giới, thậm chí còn nổi tiếng hơn cả Indonesia. Đến năm 2017, Bali đón nhận gần 6 triệu lượt khách quốc tế, gần bằng 1/2 cả nước Việt Nam cộng lại. Thiên đường "chuẩn Châu Âu" Nhiều thập kỷ trước khi giành được độc lập, Indonesia và đặc biệt là Bali đã được khám phá bởi Henrik Van Kol. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 2. Là đại diện của chính quyền Hà Lan thời bấy giờ. Henrik với nhiềm đam mê khám phá của mình đã chu du nhiều nơi tại Indonesia như Sumatra, Java, hay Bali từ những năm 1902. Có thể hiểu được Java và Sumatra vì đây là hai đảo lớn với hoạt động giao thương tấp nập cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của Hà Lan. Nhưng chuyến "ghé thăm" Bali của ông là hoàn toàn đến từ sự tò mò cá nhân, Henrik quyết định đi khám phá bất chấp những hiểm nguy rình rập vì những lời đồn về một hòn đảo theo đạo Hindu tuyệt đẹp. Và chuyến đi Bali của ông đã trở thành "huyền thoại". Trở về Hà Lan, Henrik lập tức phát hành một quyển sách mang tên Out of Our Colonies (Bên ngoài thuộc địa), mô tả về một đất nước đầy huyền bí với hàng vạn đảo ở Đông Nam Á. Trong tổng cộng 826 trang sách, Bali vinh dự được nhắc đến và trở thành một phần chính với 123 trang. Quyển sách đó trở thành "top seller" tại Hà Lan và nhanh chóng biến Bali thành một điểm đến hấp dẫn. Rất nhiều thành viên trong chính quyền Hà Lan đang sống tại Java và Sumatra lập tức trở nên tò mò và bắt đầu đến tham quan khu vực lạ lẫm này. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 3. Vài năm sau đó, Cục du lịch Hà Lan bắt đầu mở ra những tour du lịch khắp Indonesia, bắt đầu từ hai đảo chính là Sumatra và Java, và kết thúc ở "thiên đường nhiệt đới" Bali. Nếu như Sumatra và Java sở hữu một diện tích lớn và địa hình phức tạp, rất khó để khám phá trong thời gian ngắn, thì Bali với "lợi thế" nhỏ của mình cung cấp một khu vực "dày đặc" các điểm tham quan. Từ năm 1924, chính quyền Hà Lan quyết định cung cấp dịch vụ tàu định kỳ mỗi tuần từ Batavia (ngày nay là Jakarta) đến Bali. Chiếc tàu trên thường neo đậu và đón khách từ sáng thứ 6 và cung cấp một "gói nghỉ dưỡng" hai ngày một đêm, trở về vào tối Chủ Nhật. Bali trở thành một địa điểm quen thuộc để "trốn" cuối tuần đối với các thành phần giàu có tại Indonesia thời bấy giờ. Với số lượng khách ngày một tăng, Bali quyết tâm giữ vững các thế mạnh văn hóa và tôn giáo của mình để tạo nên một hình ảnh hoàn toàn khác biệt so với Sumatra hay Java. Đặc biệt là tôn giáo Hindu độc nhất ở Bali, nổi bật so với bất kỳ nơi nào trên thế giới. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 4. Trong những năm từ 1902 đến 1925, Indonesia ngày càng trở thành một điểm đến nổi tiếng được hàng loạt quyển sách nhắc đến, và không có quyển nào là không nhắc tới Bali. Trong đó nổi tiếng nhất là quyển "Bali" của Dr. Gregor Krause từ Đức, quyển sách miêu tả lại chuyến đến thăm "hòn đảo của Chúa" của ông. Đến năm 1925, không chỉ Hà Lan mà đến lượt Anh cũng bắt đầu cung cấp các tour du lịch đến Bali, biến đây thành một trong những đại diện cho khu vực nhiệt đới Đông Nam Á. Không lâu sau đó, nguồn tiền đầu tư từ Châu Âu cũng bắt đầu đổ về Bali. Các khu nghỉ dưỡng và khách sạn bắt đầu mọc lên nhanh chóng từ dòng tiền Châu Âu cũng như các "đại gia" trong nước. Nhưng tiếc rằng Bali đang trên đà phát triển lại đột ngột bị bỏ hoang khi Thế chiến thứ hai nổ ra. Sự vào cuộc của chính quyền Indonesia [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 5. Chật vật giành lại độc lập vào năm 1949, Bali lúc này đã đánh mất lượng khách du lịch đã có và trở thành một hòn đảo "hoang". Tuy vẫn được ghé thăm bởi một số nhân vật quan trọng nhưng ngành du lịch tại Bali gần như bị "khai tử". Mãi đến cuối những năm 1960, chính quyền Indonesia mới kiểm soát được tình hình và quyết định "hồi sinh" ngành du lịch tại Bali. Kể từ đó "Bali" luôn là đại diện cho những chương trình quảng bá du lịch của cả Indonesia, "Visit Indonesia" hay "Visit Bali" đều được sử dụng song song với nhau. Điều đó dẫn tới gần một nửa du khách ghé thăm Indonesia nhưng thực ra là đến Bali (một con số khá bất ngờ nếu bạn biết rằng quốc gia này có tận 17.600 đảo lớn nhỏ). Du khách đổ về Bali không chỉ là do mong muốn, họ còn được đích thân chính quyền Indonesia "mời gọi" đến với thiên đường này. Xét về khía cạnh chính trị, việc dồn hầu hết du khách vào một chỗ cũng sẽ giúp chính quyền Indonesia đỡ "nhức đầu" hơn. Nhưng tại sao Bali lại thành công đến thế? [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 6. Sự thành công của Bali đến từ một quá trình đầu tư phát triển rất dài của chính quyền Indonesia. Hơn 10 năm kể từ khi quyết định "mở cửa" Bali, vào những năm 1970, "kho báu" khi xưa mới dần dần tìm lại được sức hấp dẫn trong mắt các du khách quốc tế. Đến những năm 1980, Bali đón nhận một nguồn vốn khổng lồ đổ vào hạ tầng giao thông và du lịch, đứng đằng sau đó không ai khác vẫn là chính phủ Indonesia và những nhà đầu tư quốc tế lớn được chính phủ khuyến khích kinh doanh tại đây. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 7. Đến những năm 1990, Indonesia quyết định đầu tư mạnh vào quảng cáo để tiếp tục phát triển Bali. Năm 1992 được nước này gọi là năm "Đến thăm Indonesia", nhưng trọng tâm vẫn là Bali. Suốt một năm đó, truyền thông quốc tế được chính quyền Indonesia trả một khoản tiền không nhỏ để liên tục chiếu những mẫu quảng cáo về Bali, thậm chí là cái tên "Indonesia" còn không xuất hiện trong những mẫu quảng cáo, khiến không ít du khách hoàn toàn không biết Bali trực thuộc quốc gia này. Đến cuối những năm 1990, gần 30 năm kể từ lúc "mở cửa" cho Bali, chính quyền Indonesia tự tin rằng mình đã khai thác tối đa kho tàng kia và quyết định thêm một địa điểm mới là Lombok vào danh sách. [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 8. Tuy cũng nhận được không ít đầu tư, nhưng cho đến nay Lombok vẫn kém xa Bali về tính hiệu quả. Đa phần là do "cái bóng" của Bali đã quá lớn, và một phần là do văn hóa đạo Hồi khá khắt khe với các hoạt động "ăn chơi" tại đây. Kết quả Tính đến năm 2017, gần 6 triệu lượt khách đã đến với "thiên đường" nhiệt đới Bali (trong tổng số 14 triệu lượt khách quốc tế đến thăm Indonesia). [Case Study] Bali - Hòn đảo nhỏ cân cả vạn đảo Indonesia, thiên đường nhiệt đới chuẩn châu Âu - Ảnh 9. Bali thành công đến nỗi chính quyền Indonesia phải chật vật tìm một "đệ tử" cho địa danh quá nổi tiếng này, và tiếc rằng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Và đối với nhiều du khách, họ chỉ biết đến Bali chứ không hề nghe tới đất nước Indonesia xa lạ kia. Khiến Bali trở thành một Case Study khi quảng cáo "quá thành công". 


EmoticonEmoticon